Cao tổ Nguyễn Hố
Quí phái, thanh minh ngày 29-03 AL, ở thôn Đạm thuỷ Bắc, xã Đức Minh, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Hiện nay do ông Cho cúng.
Ông Cho đời thứ 15, là con ông Thả (Hoa), cháu nội ông Đìa, (Ông Đìa là em Ông Điềm, nhưng vì ông Điềm mất sớm, nên ông Đìa đứng cúng và duy trì mãi đến ông Hoa, và rồi đến ông Cho tiếp cúng, cho dù đích tôn phái này là Nguyễn Trọng Tiến, đời thứ 15, con ông Tề hiện đang sống tại Chính Đức ở Vỏ Đắt, tỉnh Bình Thuận).
Phái này chúng tôi đã liên lạc với ông 2 Tiến, ông 2 Hường, ông Tấn (2 Khá) ở Võ Đắt, ông Hiếu ở Sông Vệ để tìm hiểu. Và gần đây chúng tôi cũng có liên lạc được với các con của ông Hoa; ông 9 Hùng, cùng với ông 3 Sung (3 Phúc) ở Bà Rịa Vũng Tàu (Ông Sung cũng có ghi chép cho nhánh của ông, kể từ đời ông Hố). Theo những lời kể của: ông Sung, ông Hùng, ông Hường, ông Khá và ông Hiếu thì ông Hố cũng cao hơn ông Nham 3 đời, tức là đời thứ 8.
Tuy trong phái này có được nhiều thông tin nhưng cũng chưa đủ để liên kết thành một hệ thống chuẩn xác về các đời thứ với nhau, cụ thể là chỉ trôi chảy một mạch từ Cao Tổ Nguyễn Hố đến các đời con cháu của ông Ý, các nhánh còn lại chỉ sau khi chúng tôi sắp xếp theo lời kễ về cách xưng hô vai vế, thứ bậc với nhau của những người cao niên còn sống thì mới thấy rõ được. Cho nên dù đã cố gắng rất nhiều, chúng tôi vẫn chưa đưa vào hệ thống một cách nhất quán được, cho đến khi nào có thêm tài liệu hoặc chứng cứ mới hơn, rõ ràng hơn.
Khu mộ cải táng của Chi phái nằm tại tọa độ: (14.971578, 108.924586)
Theo lời ông 2 Tiến (đời thứ 14, Thứ phái 11/3), thì:
_ông Nguyễn Trần (tên gọi 6 Neo, con ông Chè) là đời thứ 11, vì ngang đời với ông Nghị, (ông Cố của ông Tiến)
_ông Nguyễn Thước (con ông Nhàn, cháu ông Chè), cũng như ông Nguyễn Miền cùng là đời thứ 12, vì ngang đời với ông Ngữ, (ông Nội của ông Tiến)
Theo lời kễ của bà Nhứt (con ông Liền, cháu Nội ông Hung), bà gọi ông Trần bằng Bác, gọi ông Thước bằng Anh, nên Bà cũng là đời thứ 12.
(chú 2 Tiến cũng gọi bà Nhứt bằng Bà).
_Vậy Nguyễn Chè, Nguyễn Hung là đời thứ 10 (ông Chè vai anh, tuy nhiên không biết tên Cha của 2 ông).
Theo lời kễ của ông Lợi thì không biết cha ông Vị tên gì, chỉ biết rằng ông Vị vai anh ông Trần và ông Nhàn (đều là con ông Chè), và cũng là anh của ông Nam (vì bà Nhứt gọi Ông Nam bằng Chú).
_Như vậy cho biết ông Vị và ông Nam là đời thứ 11.
Cũng theo lời kễ của bà Nhứt thì ông Liền (cha của bà) vai anh ông Nam, là vì ông Khuyên (con ông Nam) gọi bà bằng Chị, nhưng chưa rõ ông Liền với ông Nam có phải là anh em ruột hay không, thế nên phía trước "họ và tên" của các ông, trong thẻ "Danh bạ gia phả" chúng tôi phải ghi số để biết là đời thứ mấy trong Tộc.
Hiện nay, Chi các ông: Vị, Chè, Hung, và Nam đều do ông Lợi (Tiện) đứng cúng vào ngày 22-03 AL tại nhà riêng ở thôn Đạm Thủy Nam, từ những năm sau 1975.
Theo lời ông 9 Hùng (đời thứ 14, con ông Đìa) thì ông gọi ông 9 Lớn (con bà Nhứt) và ông 3 Phúc bằng Chú, cho thấy Chi của ông Chè và ông Dư thấp hơn Chi ông Ý, Và ông Lợi gọi ông 9 Hùng bằng Anh, nên Chi ông Vị cũng vậy. Ông 9 Hùng gọi ông Miền (con ông Hiển) bằng Ông; và gọi ông Khôi, ông Bớm, ông Năng (cháu Nội ông Hiển) bằng Chú, cho thấy Chi của ông Hiển cũng nằm sau Chi ông Ý.
Cũng theo lời ông 9 Hùng thì ông Miền vai anh ông Tới (tên gọi là Sử, cháu Nội của ông Mai), vậy Chi ông Hiển cao hơn Chi ông Gẵng (con ông Mai).
Đồng thời ông Be (Nguyễn Thanh, con ông Sẵn, cháu Nội ông Tới) cũng nói là Chi của ông là Chi Út, vì ông phải:
_gọi ông Lâm (con ông Rày) và ông Lía (con ông Mau) bằng Anh (do cùng ông Cao: Nguyễn Mai)
_gọi ông Rày (cha ông Lâm), ông Mau (cha ông Lía) bằng Bác họ ở nhánh cao;
_và gọi ông Sử (tên gọi là Xự, con ông Tới, cháu Cố của ông Mai) bằng Bác ruột.
Tất cả tư liệu này sau khi chúng tôi ghi chép và hệ thống lại, đã chỉ rõ ra rằng tất cả các Chi trên đều nằm trong "Quí phái Thanh Minh ngày 29-3".